Một bệnh nhân nữ, 79 tuổi, nhập viện vì đau bụng quặn cơn kèm nôn ói và bí trung đại tiện. Khai thác tiền căn, bệnh nhân không mắc các bệnh lý nội khoa, không có tiền căn phẫu thuật vùng bụng trước đó. Trong khoảng thời gian gần đây bệnh nhân cũng không bị táo bón hay sụt cân.
Thăm khám lâm sàng cho thấy bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt. Bệnh nhân có da niêm hồng, không phù và không có hạch ngoại biên. Khám bụng ghi nhận bụng chướng, nghe âm ruột tăng và ấn bụng không vùng đau khu trú. Hình ảnh X-quang bụng không sửa soạn và CT bụng của bệnh nhân được thể hiện sau đây:
Kết quả
Trên X-quang bụng không sửa soạn, có ba dấu hiệu được ghi nhận. Thứ nhất, hình ảnh các quai ruột non dãn và không có hơi ở đoạn đại tràng trái phù hợp với chẩn đoán tắc ruột. Thứ hai, có một cấu trúc cản quang hình tròn nằm ở hố chậu phải. Thứ ba, có sự hiện diện của hơi ở vùng mờ của gan (tuy nhiên không xác định được hơi nằm ở ngoài gan, trong đường mật hay trong tĩnh mạch cửa trong gan)
Trên CT bụng có cản quang trong lòng mạch và trong lòng ống tiêu hóa, các dấu hiệu ghi nhận được như sau: hơi trong đường mật trong gan (hình thứ nhất), túi mật co nhỏ và thành túi mật dày (hình thứ nhì), ổ đọng thuốc cạnh tá tràng, có thể trong phễu túi mật (hình thứ 3), các quai ruột non dãn to, đại tràng lên còn ít hơi nhưng đại tràng xuống xẹp hoàn toàn (hình thứ 4-5), cấu trúc cản quang hình tròn nằm trong lòng ruột ở hố chậu phải (hình 6)
Sỏi mật là nguyên nhân hiếm gặp của tắc ruột. Khoảng 2% các trường hợp tắc ruột là do sỏi mật.
Sỏi túi mật gây viêm túi mật mãn tính, diễn tiến gây thủng vào lòng tá tràng. Theo phân loại của Niemeier, đây là thủng túi mật týp 3. Qua lổ dò túi mật-tá tràng, sỏi túi mật di chuyển xuống tá tràng và di chuyển trong lòng ruột theo nhu động của ruột. Sỏi có kích thước trên 2,5 cm sẽ mắc kẹt ở đoạn cuối hồi tràng và gây tắc ruột.
Sỏi mật trong lòng ruột
Sỏi lèn lâu, ngoài việc gây tắc ruột, có thể gây thiếu máu thành ruột ở vị trí bị sỏi lèn, dẫn đến thủng ruột, viêm phúc mạc. Ngoài ra, ruột non, bị tắc hoàn toàn và cấp tính, có thể dẫn đến vỡ. Bệnh nhân, bị tắc ruột do sỏi mật, nếu diễn tiến đến viêm phúc mạc do thủng hay vỡ ruột có dự hậu rất dè dặt.
Ruột bị vỡ trong tắc ruột do sỏi mật
Tắc ruột do sỏi mật có thể được chẩn đoán bằng siêu âm, tuy nhiên giá trị của siêu âm trong chẩn đoán tắc ruột nói chung và tắc ruột do sỏi mật nói riêng còn hạn chế. Ngoài hình ảnh tắc ruột, hơi trong đường mật hay túi mật trên siêu âm là dấu chỉ điểm của tắc ruột do sỏi mật.
Hơi trong túi mật trên siêu âm
Trên X-quang, tắc ruột do sỏi mật thể hiện bằng ba dấu hiệu: dấu hiệu tắc ruột, dấu hiệu hơi trong đường mật, và dấu hiệu sỏi kẹt ở đoạn cuối hồi tràng. cả ba dấu hiệu này có thể được ghi nhận ở X-quang bụng không sửa soạn. Tuy nhiên, ba dấu hiệu trên thể hiện rõ hơn trên CT bụng. CT bụng, ngoài ngoài việc thể hiện "tam chứng tắc ruột do sỏi mật" rõ ràng hơn X-quang bụng thường quy, còn cung cấp một số dấu hiệu có giá trị khác, thí dụ: thành túi mật dày (viêm mãn), thuốc cản quang thoát vào túi mật (dò túi mật-tá tràng), thiếu máu thành ruột (nơi bị viên sỏi lèn chặt)...
Bệnh nhân bị tắc ruột do sỏi mật thường là nữ, lớn tuổi (trên 70), nhập viện vì hội chứng tắc ruột. Chẩn đoán tắc ruột do sỏi mật không thể dựa vào lâm sàng. X-quang bụng không sửa soạn là phương tiện chẩn đoán được chỉ định trước tiên. Nếu X-quang cho thấy cả 3 dấu hiệu nói trên, hoặc hai dấu hiệu: tắc ruột và sỏi mật to cản quang ở hố chậu phải, chẩn đoán đã được xác định. Nếu chẩn đoán dựa vào lâm sàng và X-quang thường quy còn nghi ngờ, cần chỉ định CT bụng có cản quang trong lòng mạch và trong lòng dạ dày. Trong hầu hết các trường hợp, CT bụng cho chẩn đoán xác định.
Cần chẩn đoán phân biệt tắc ruột do sỏi mật với một số bệnh lý gây tắc ruột khác cũng có thể xảy ra ở bệnh nhân nữ lớn tuổi. Đó là các bệnh lý tắc ruột do bã thức ăn, do thoát vị bịt, do u ác tính của đại tràng...
Khi thăm khám lâm sàng một bệnh nhân nữ lớn tuổi có hội chứng tắc ruột, cần chú ý một số dữ kiện sau đây: về mặt tiền căn cần chú ý đến sỏi mật, tiêu máu, sụt cân, phẫu thuật nối tắt dạ dày. Khi thăm khám lâm sàng cần chú ý: sức nhai, toàn trạng (mập hay gầy ốm), dấu hiệu thiếu máu, phù, vết mổ vùng thượng vị, dấu Howship Romberg...
Tắc ruột do sỏi mật phải được điều trị bằng phẫu thuật. Nguyên tắc phẫu thuật là lấy viên sỏi kẹt để tái lập lại sự lưu thông của ruột. Nếu tình trạng dò túi mật-tá tràng có chỉ định phẫu thuật, tình trạng bệnh nhân cho phép và thời gian mổ không kéo dài quá 3 giờ, có thể xử lý dò túi mật-tá tràng sau khi đã xử lý tắc ruột.
Có một số điểm cần chú ý trong công tác chuẩn bị trước mổ. Thứ nhất, bồi hoàn nước và điều chỉnh các rối loạn điện giải và kiềm toan. Thứ nhì, tối ưu hóa tình trạng của hệ tim mạch và hô hấp. Thứ ba, cho kháng sinh. Thứ tư, đặt một thông dạ dày giải áp.
Về mặt kỹ thuật, cần chú ý một số điểm sau đây: thứ nhất, không cố gắng đẩy sỏi xuống đại tràng vì sẽ lảm tổn thương thành ruột. Thứ nhì, không xẻ thành ruột ngay trên vị trí sỏi kẹt. Thành ruột nơi sỏi kẹt thường bị thiếu máu, do đó nguy cơ xì dò sẽ tăng nếu như xẻ ruột tại vị trí này để lấy sỏi. Tốt nhất là đẩy sỏi ngược lên đoạn ruột dãn phía trên, mở thành ruột lấy sỏi sau đó khâu lại thành ruột. Thứ ba, nếu sỏi lèn chặt, hay thành ruột nơi bị sỏi lèn có dấu hiệu thiếu máu, cắt đoạn ruột có sỏi kẹt sau đó khâu nối lại ruột. Nếu vị trí khâu nối quá gần van hồi-manh tràng, đóng đầu dưới và khâu cắm đầu trên vào đại tràng lên. Cuối cùng, nếu ruột bị thủng hay vỡ, cắt đoạn ruột sau đó tùy theo tình trạng bệnh nhân mà khâu nối lại hay đưa hai đầu ruột ra ngoài kèm rửa bụng và dẫn lưu khoang bụng.
Mở ruột lấy sỏi mật
Trong thời gian hậu phẫu, bệnh nhân có nguy cơ xảy ra các biến chứng về tim mạch, hô hấp và nguy cơ xì dò chỗ khâu nối ruột. Kháng sinh được duy trì nếu cuộc phẫu thuật đã được tiến hành trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc hoặc bệnh nhân có nguy cơ viêm phổi do ứ đọng sau mổ. Chỉ rút thông dạ dày khi đường tiêu hóa đã hoạt động và không còn ứ đọng trong dạ dày. Bệnh nhân lớn tuổi rất nhạy cảm với những biến đổi về nội môi. Cần tránh nguy cơ quá tải cũng như thiếu nước. Đánh giá thường xuyên cân bằng xuất nhập nước và ion đồ để có chỉ định truyền dịch thích hợp. Khi đường tiêu hóa bắt đầu hoạt động trở lại và dẫn lưu khoang bụng (nếu có) ra lượng dịch tối thiểu, rút ống dẫn lưu và cho bệnh nhân ăn trở lại. Khi bệnh nhân bắt đầu được cho ăn trở lại, cần chú ý nguy cơ trào ngược thức ăn vào đường hô hấp. Bắt đầu bằng việc cho bệnh nhân ăn từng lượng nhỏ một với thức ăn loãng, ở tư thế ngồi. Không cho bệnh nhân ăn tối thiểu 4 giờ trước khi ngũ.
Bs Lê Hùng
Case LS Tắc ruột do sỏi mật
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc. * Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết. * Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài